Địa Lan Cymbidium được mệnh danh là nữ hoàng của các loài lan nhờ chúng có những điểm nổi bật cả về giá trị khoa học lẫn giá trị mỹ thuật. Vẻ tao nhã, hài hòa của chúng từ lâu đã hiện diện trong văn học, nghệ thuật và gắn liền với đời sống văn hóa của người Á Đông.
Bản mô tả Cymbidium xưa nhất đã tìm thấy có lẽ mô tả loài Mặc lan (Cym. ensifolium) trong sách ghi chép về thực vật chúng của Trung Hoa khoảng cuối thế kỷ thứ 3 sau công nguyên.
Trong hệ thống phân loại thực vật của thế giới ngày nay, người ta đã xếp riêng Cymbidium vào một chi, chi này đã được nhà thực vật học người Thụy Điển Otto Swartz mô tả năm 1799. Trong khóa phân loại của Lindley - Bentham - Brieger năm 1983, chi Cymbidium thuộc tông phụ Cymbidinae, tông Dendreae, phân họ Orchidoideae.
Theo tài liệu về thực vật ở Đông Dương, từ năm 1932, Henri Lecompte cho rằng chi này có 120 loài. Gần đây, năm 1978 Jean Carmard sắp xếp lại và xác định có khoảng 60 loài. Những nhà phân loại học Việt Nam như Phạm Hoàng Hộ, Võ Văn Chi... đã giới thiệu ở nước ta có khoảng 12 loài. Các loài thuộc chi Cymbidium phân bố chủ yếu ở châu Á, từ dãy Hy Mã Lạp Sơn (Hymalaya) đến Nam Trung Quốc (Vân Nam), các nước Đông Dương, Miến Điện, Thái Lan ... và một vài loài phân bố ở các châu lục khác.
Phần lớn các loài trong chi này sống ở các vùng rừng núi khá cao, khô và lạnh, một vài loài khác chịu được điều kiện nóng ẩm của rừng nhiệt đới.